top of page

[reoisa/isareo] Khuây lòng

  • Writer: Nhân Thời
    Nhân Thời
  • Jan 23, 2024
  • 15 min read

Gửi em bé Dương Yến Nhi, người đầu tiên sìn ReoIsa/IsaReo với chị và đồng hành cùng những câu chữ của chị tới hiện tại. Chúc em mỗi ngày đều vui vẻ, bình an.


Thân tặng,


Khuây lòng.


Tác phẩm hư cấu dựa trên nguồn cảm hứng của tôi về chất liệu sử Việt. Hai nhân vật tôi sử dụng tên phiên âm Hán Việt: Khiết Thế Nhất (Isagi Yoichi) và Ngự Ảnh Linh Vương (Mikage Reo).


*


Linh Vương mở hé đôi mắt nhức mỏi, cảm giác cả người nặng trịch như đeo chì.


Chàng thử cử động, cơn đau từ ngực và thắt lưng lập tức trỗi lên, chàng xuýt xoa. Chống tay lên phản gỗ, Linh Vương gượng dậy, mắt dáo dác nhìn quanh nơi lạ.


Căn phòng đơn mộc chỉ kê một tấm phản, trải chiếu cói, đệm lanh. Nắng chiếu qua mấy song cửa, Linh Vương trông thấy phía gian bên, nơi ngăn cách bởi một tấm rèm trúc thưa, nghi ngút khói trà. Có bàn tay vươn ra, khoan thai rót chút trà vào chiếc chén sứ. Bờ tường khuất lấp nhân dạng người kia, từ phía giường trông ra chỉ thấy ống lĩnh [1] màu xanh nhạt.

[1] Ống lĩnh: ống tay áo giao lĩnh, một kiểu áo vạt chéo thời xưa.

Thế là chàng lia mắt xuống vết thương trên người. Chàng mang mang nhớ, trước khi bị nước lũ cuốn trôi, chàng bị chém hai nhát tương đối nghiêm trọng trên ngực và một nhát ở eo, khi đấy đã nghĩ mình sẽ chẳng toàn mạng. Lúc này xem ra, đã có người thấy chàng trôi dạt ở Hạ nguồn con sông và đưa về chữa trị.


Vết thương được băng bó bằng vải sạch, rắc bột khử mùi kỹ càng. Đôi mắt màu hoa xoan liếc qua mấy tấm khăn vắt trên thau đồng nhuốm máu bên cạnh, Linh Vương nén đau đứng dậy, xỏ đôi dép rơm đặt ngay ngắn dưới phản, bước về phía rèm trúc.


Người kia xem chừng đã biết chàng thức dậy, vẫn nhàn nhã ngồi thưởng trà. Linh Vương vén rèm, trông thấy một người ngồi vắt chân chữ bát trên chiếu cói. Người kia lia ánh nhìn về phía chàng, đôi mắt nhuộm sắc xanh bìm bịp thoáng gợi chàng nhớ đến một cái tên đã khá mơ hồ trong tâm trí.


- Khiết Thế Nhất... - Linh Vương không chắc lắm, bèn bổ sung - quan Thị lang, đúng không?


Gương mặt trầm lắng của người kia thoáng qua nét cười nhàn nhạt, Thế Nhất đặt chén trà xuống bàn, đáp:


- Đa tạ Đại vương [2] vẫn nhớ, chỉ là tôi đã không còn làm quan từ lâu lắm rồi.

[2] Đại vương: cách gọi vương thân thời Trần.

Ồ phải, Linh Vương nhớ Sĩ Lang từng kể chàng rằng, vào cái thuở chàng rong ruổi chinh chiến trên những cao nguyên đất đỏ xứ Chiêm, trong triều chẳng mấy an ổn. Quan gia [3] ăn chơi trác táng, lại ngang ngược không nghe can gián, liên tiếp xử tội công thần. Thị lang họ Khiết kia trước đây từng có công trong việc khẩn hoang nên mới được trọng dụng. Sau này, các công tước, vương hầu thu vùng đất trống, mở rộng điền trang, mỗi bên tự ý gây dựng lãnh thổ riêng, khiến cho nông dân không có đất, đành phải gán mình làm nông nô. Có viên quan Thị lang đã dâng sớ xin ngài ngự thay đổi tình hình ruộng đất bảy lần nhưng không được ngó ngàng, sau đó lại bị một vương hầu mượn cớ khép tội, ép buộc y từ quan.

[3] Quan gia: cách gọi vua thời Trần.

Thì ra người đó là Khiết Thế Nhất.


Thời kỳ này quý tộc ra sức nhiễu nhương, hạch sách. Quân vương chỉ lo xây dựng đền đài và sa đà chốn hậu cung, để mặc quần thần chia bè kết cánh. Giờ trong triều đình đầy rẫy kẻ nịnh hót, các vị quan thanh liêm thuở đầu đều đã chán ngán cáo quan về quê mở trường dạy học, hoặc lên núi sống đời ẩn sĩ cư nhàn.


Chính chàng - một Đại vương quyền trên vạn người - cũng chẳng thoát được bẫy rập của những kẻ gian trá.


Thấy chàng đứng im, Thế Nhất chủ động mở lời:


- Vết thương còn chưa khỏi hẳn, Đại vương đừng đi lại nhiều.


Linh Vương không vội ngồi xuống tấm đệm cói đối diện người kia, nhướng mày dò xét.


- Cậu sống ở đây?


Hạ nguồn sông hẻo lánh, núi đồi hoang sơ, bởi vậy đám người kia mới dám ra tay với chàng. Lúc này lại trùng hợp có người cứu giúp, dù trước kia Khiết Thế Nhất chẳng hề can hệ đến phe phái nào, Linh Vương vẫn không khỏi hồ nghi.


Trông ra phía ngoài hiên, đập vào mắt vị vương hầu là tầng tầng lớp lớp bạch đàn. Nắng rải trên những phiến lá, mùi khuynh diệp ngan ngát len lỏi vào trong gian nhà.


Thế Nhất rót tiếp một chén trà, mỉm cười với người tóc tím:


- Ngài muốn hỏi vì sao tôi lại cứu ngài, đúng không? 


Thấy người kia thẳng thắn như vậy, Linh Vương cũng chẳng buồn dò xét thêm. Ánh mắt chàng mang đậm ý chất vấn.


- Tôi tiện tay.


Rõ ràng, Linh Vương chẳng tin câu "tiện tay" kia. Thế Nhất nhìn chàng, khẽ cong môi:


- Ngài là một Đại vương thất thế, tôi là phận kẻ sĩ đã chán ngán quan trường, cứu ngài cũng chẳng được lợi lộc gì. Thực sự chỉ là trùng hợp.


Linh Vương nhìn nét thản nhiên trên gương mặt người kia, thoáng sau mới bước tới ngồi xuống tấm đệm trên chiếu cói. Thế Nhất rót chén trà, vén tay áo, nhoài người đặt chén sứ trước mặt chàng.


Vị Đại vương nhìn làn khói trắng phảng phất không gian quạnh quẽ, đột nhiên bật cười.


- Lúc cậu bị ép rút khỏi quan trường, ta vẫn là một Đại vương danh chấn lẫy lừng. - Đôi mắt hoa xoan hơi híp lại, chàng liếc nhìn đối phương - Làm sao cậu biết ta giờ thất thế?


Trái với dự đoán của chàng, người kia không hề tỏ ra nao núng. Ngược lại, trong đáy mắt y đong đầy ý cười ảm đạm.


- Bởi vì Đại vương là truyền kỳ của chúng dân. - Y điềm đạm nói.


- Ngài đạp lên sóng dữ, giữ vững biên ải, chinh chiến muôn phương để bảo vệ bình an trăm họ. Muôn dân thờ phụng ngài, do vậy những kẻ tiểu nhân càng thêm căm ghét ngài. Chuyện bắt gặp ngài trôi dạt vào Hạ lưu sông chỉ là tình cờ, nhưng chuyện ngài bị gian thần hãm hại tôi vốn đã biết trước. Cây cao đón gió lớn, đạo lý ấy tôi nghĩ ngài hiểu rõ hơn ai hết.


Trong lòng rút đi một phần cảnh giác, Linh Vương gật đầu:


- Ta hiểu. - Chàng nhếch miệng, giọng nhạt nhòa - Ta cũng đã… lường trước ngày này.


Thế Nhất cụp mắt trông nắng đổ bên thềm. Tiếng chim ban cưu văng vẳng ngoài rừng bạch đàn gợi y nhớ về kinh đô thuở gấm hoa. Lúc còn là cậu học trò vác lều chõng lên kinh, y tình cờ trông thấy một vạt áo tím lướt ngang tầm mắt.


Thuở ấy người kia vẫn còn là chàng công tử tiêu diêu, tự tại, cặp mắt hoa xoan chưa phủ bụi chiến chinh, chưa mòn hao bởi trùng vây quỷ kế.


Thiếu niên ấy chẳng ngại bùn đất bên đường, chẳng ngại đứa trẻ bệnh tật, bẩn thỉu, quỳ một gối cho nó miếng bánh rán vừng. Nhìn theo bóng lưng đứa trẻ, vị công tử trút một hơi dài, nói với vú già bên cạnh.


“Một miếng bánh cũng chỉ giúp nó kéo dài hơi tàn, như vậy thì ích gì chứ? Chiến tranh đã cướp đi gia đình, cướp đi chốn về của họ. Nếu quan gia không bận lòng đến họ, vậy ta sẽ làm.


Ta sẽ trả lại nhà cho trăm họ.”


Câu nói nọ đánh động cõi lòng cậu học trò. Thế Nhất cũng mất đi cố hương trong chiến tranh. Y thấu hiểu sâu sắc cảnh bơ vơ không nơi nương tựa của đứa trẻ ăn mày kia, lại càng ghi nhớ câu nói của vị công tử ngày nào. Sau này y đề danh bảng vàng, theo sư phụ học hỏi vài năm rồi bước chân vào quan trường, thì vị công tử áo gấm ban xưa đã trở thành Đại vương uy hùng một cõi. Y lẳng lặng dõi mắt theo bước chân của người kia, dốc lòng làm tốt bổn phận của một quan viên, lập đoàn khai khẩn đất hoang, giúp lưu dân có được nhà cửa, đồng ruộng để cấy cày. Nhưng dẫu đã dốc sức thế nào, cuối cùng phận tôi đòi như y cũng chẳng thể suy suyển Cửu Trùng.


Thánh dụ ban xuống, thu hồi áo gấm mũ hoa, thẳng thừng tước đoạt toàn bộ công lao suốt nhiều năm của y, đuổi y khỏi chốn phồn hoa. Thế Nhất tìm về cố hương giờ đã hiu quạnh, dựng nhà ẩn cư trên núi.


Dẫu vậy, lòng y vẫn canh cánh một người - chàng công tử áo gấm thuở nào, vị Đại vương với đôi mắt hoa xoan tú lệ.


Quyền uy của chàng rồi sẽ có ngày trở thành kịch độc trong miệng lưỡi gian thần, đẩy chàng đến cảnh cùng đường mạt lộ.


Thế Nhất nhìn gương mặt mỹ miều như tượng tạc của vị Đại vương, bỗng cất giọng ngâm nga:


- Hiên trung hữu ban cưu. (Trong hiên có con chim ban cưu)


Nghe câu thơ kia, Linh Vương bất giác trông ra khu rừng bên ngoài. Tiếng chim vọng đến bên tai, chàng chầm chậm cất lên lời thơ tiếp nối:


- Trường minh: hoài thử đô! (Hót hoài nhớ kinh đô)


- Hỏi người nhớ kinh đô, hay nhớ cảnh giàu sang?


Thế Nhất hướng chén trà về phía chàng. Phân vân một thoáng, Linh Vương cũng giơ chén lên cụng một cái rất nhẹ.


- Đói hay no là do người ta, có gì mà đắc ý. - Ngừng một chút, chàng lắc đầu cười - Nhưng ta lại không thể không màng đến đói no của trăm họ.


- Ngài đúng là người như vậy. - Thế Nhất nhẹ giọng nói.


Y hiểu rõ, lúc này nếu trở về đô thành, vị Đại vương kia sẽ còn phải đối mặt với vô vàn trắc trở từ bề trên suy kiệt và triều đình hung hiểm. Nhưng chàng không thể buông bỏ muôn dân bách tính, cũng như Thế Nhất, dù đã rời xa quan trường, y vẫn không thôi lắng lo cho người vì muôn dân kia.


- Triều đại này đã mạt vận. - Sau cùng, y vẫn nhắc nhở - Đại vương, ngài phải bảo trọng.


Nhiều năm nay y chẳng can hệ gì đến Linh Vương, tỏ ra quá quan tâm sẽ chỉ càng khiến chàng thêm hoài nghi. Y chỉ đành biểu lộ chút ít tâm tư của mình thông qua hai tiếng "bảo trọng” đầy khách sáo.


- Cảm ơn, ta sẽ ghi nhớ những lời này. - Linh Vương lễ độ đáp, trong giọng nói là sự cảm kích thuần túy - Ơn huệ này, mai sau ta…


- Kẻ sĩ không cần ân nghĩa. - Thế Nhất mỉm cười từ chối - Tôi đã nói, tôi chỉ tiện tay thôi. Đã là tình cờ thì mong ngài cũng đừng để trong lòng. Chúng ta vốn dĩ không nên can hệ gì mới phải.


Đại vương không nên biết tâm tình của y, Thế Nhất cụp mắt nghĩ. Thời thế nhiễu nhương, chữ tình chỉ giống như giọt nước giữa biển rộng sông dài. Tấm lòng Linh Vương còn phải dung chứa muôn dân, không cần để tâm đến một ánh mắt lẫn lộn trong muôn dân ấy.


Khiết Thế Nhất mong chàng buông bỏ, mong chàng bình an; y cũng biết, chàng sẽ chẳng bao giờ buông bỏ hoàng triều dù nó mục ruỗng đến nhường nào - hệt như ngọn giáo đã tổn thương lỗ chỗ vẫn kiên cường đứng thẳng, chỉ điểm trời xanh.


Cuộc đời chàng đã định sẽ sóng gió. Chàng không e sợ sóng gió, chí chàng đã quyết che chắn cho trăm họ, đổi lấy một chữ "nhà”.


Mà kinh đô giờ đã tàn tạ, đối với Linh Vương mà nói - cũng chẳng khác là bao mái tranh mà những kẻ hành khất cư ngụ - là nơi chàng gọi là "nhà”.


Đại vương sẽ chẳng bao giờ phản bội lại mái nhà ấy kể chăng chàng biết những gì mình làm không thể cứu vãn kết cục của Cửu Trùng Đài [4]. Một khi đài cao ấy cháy rụi, thân xác chàng cũng tuẫn táng cùng nó.

[4] Cửu Trùng Đài: một công trình kiến trúc thời Lê Trung Hưng, sau này bị thiêu rụi trong cuộc binh biến. “Cửu Trùng” ở đây còn dùng để ám chỉ nhà vua.

Thật là một kết cục thê lương.


Y lại chỉ có thể lẳng lặng nhìn chàng tiếp tục lao thân vào biển lửa.


Thế Nhất nghĩ rằng từ lúc ẩn cư trên núi, y đã chấp nhận bốn chữ "thế sự vô thường”, nhưng thế sự động đến người y thương, y vẫn không thể thôi xót xa.


Rốt cuộc vì sao Đại vương phải gánh tai ương Cửu Trùng?


- Nếu huynh không muốn ta để trong lòng, vậy thì ta nghe huynh. - Linh Vương đặt chén trà xuống, cười.


- Giờ tôi chỉ là một cư sĩ tầm thường, ngài gọi như vậy tôi sợ mình tổn thọ mất.


- Có sao đâu, ta nhớ tuổi tác chúng ta cũng gần nhau, gọi một tiếng "huynh” cũng để bày tỏ lòng cảm kích.


Ngừng một chút, Linh Vương thẳng thắn nhìn y:


- Thế Nhất, tuy giờ thất thế thì ta vẫn là Đại vương, sau này… nếu không muốn tiếp tục đời ẩn cư, huynh có thể tới phủ tìm ta bất cứ lúc nào. Phủ Đại vương luôn mở cửa chào đón vị khách là huynh.


Biết rằng đó chỉ là lời khách sáo, Thế Nhất vẫn bất giác xao động. Đâu ngờ sẽ có ngày y dễ dàng thỏa mãn chỉ vì nghe người kia gọi tên mình, xưng hô một chữ "huynh” đầy trang trọng.


Nhưng rốt cuộc, tiếng gọi ấy cũng chỉ đủ lung lay một thoáng lòng y.


Y nào muốn trở thành khách của chàng.


Thế Nhất không tránh né ánh mắt chàng, cũng không lạc trong đôi mắt màu hoa xoan ấy. Thoáng sau, y kính cẩn đáp:


- Thần sẽ suy nghĩ.


Linh Vương hiểu rằng y đang uyển chuyển chối từ.


- Cũng đúng - Chàng bật cười, lặp lại lời y - Chúng ta không nên can hệ gì, ấy mới là lẽ thường.


Thế Nhất đã chọn đời sống ẩn sĩ cư nhàn, chàng cũng chẳng đành lòng kéo người đã cứu mạng mình trở lại tấm lưới vàng đa đoan.


Không can hệ gì, ấy mới là sự bảo hộ tốt nhất cho hai người.


*


Linh Vương ở lại chòi tranh của Thế Nhất dưỡng thương thêm ba ngày rồi mới xuống núi. Trước đó, chàng đã bí mật liên lạc với tôi tớ, định bụng loan tin mình đã chết mất xác nhằm khuấy động một phen. Quan gia tuy chán ghét việc uy danh của chàng lớn hơn ngài, song cũng không muốn mất đi tấm khiên bảo hộ hoàng triều. Chừng nào chàng còn ở đó, vận của hoàng triều Ngự Ảnh vẫn chưa tận.


Chàng muốn xem xem lần này mình biến mất, kẻ nào sẽ mừng rỡ nhất.


Hôm ấy, canh năm Linh Vương đã thức dậy, rục rịch xuống núi. Tối qua chàng đã đánh tiếng với Thế Nhất, lúc này không từ mà biệt cũng chẳng thấy ái ngại. Chàng âm thầm xuống núi giờ này cũng là để người ta không biết trên núi có một ẩn sĩ tên Khiết Thế Nhất. Linh Vương vẫn lo ngại quanh vùng này lẩn khuất tàn dư của đám tiểu nhân kia. Dù chỉ là tình cờ, Thế Nhất cứu chàng cũng gần như mạo hiểm một phen, chàng không muốn rước thêm phiền toái hay hung hiểm cho y.


Có điều, vị Đại vương không biết, tận đến khi vạt áo tím của chàng khuất sau rặng bạch đàn, trong căn chòi nhỏ vẫn có người lẳng lặng dõi mắt trông theo.


*


Linh Vương đi từ lúc trời còn tối mịt, đất dày đặc sương đến khi ánh ban mai chốn Đông phương ửng đỏ mới xuống chân núi. Sương sớm dần tản trên những phiến cây rừng. Chàng nhìn quanh quất, chợt trông thấy từ xa, một lão tiều phu chống gậy đi tới, nom phương hướng có vẻ muốn lên núi.


Lúc đi ngang qua chàng, lão tiều phu chợt dừng lại, nheo mắt.


- Ơ, cậu là…


Tưởng rằng lão nhận ra thân phận mình, Linh Vương vội bước qua, bỗng nghe lão nói tiếp:


- Cái người mà cậu Nhất lặn lội kiếm tìm cả tháng đây mà.


Danh xưng quen thuộc đập vào tai, bước chân Linh Vương dừng lại.


- Cậu Nhất nào hở cụ? - Chàng gạn hỏi thì hay rằng, dân cư dưới chân núi đều biết có người dựng chòi tranh, sống lánh đời trong rừng bạch đàn trên núi. Mọi người chẳng rõ y từ đâu đến, chỉ biết tên y độc một chữ "Nhất”, họ gọi mãi thành quen.


Lão tiều phu kể, từ con trăng trước, cậu Nhất kia ngày nào cũng đi dọc hạ nguồn sông, cắm cọc ở đó, cứ như đang nghe ngóng điều gì. Ông lão tiều phu mấy lần đi qua, tò mò hỏi, Nhất chỉ cười nói cậu đang tính ngày nước lũ.


“Nước lũ thì sao?”


Thấy lão hồ nghi, cậu Nhất cười, đáp:


“Sông đến mùa lũ, sẽ có người trôi về Hạ nguồn. Tôi phải chờ trước, kẻo chăng quá trễ.”


- Chờ trước? Ý lão là… - Linh Vương ngây ngẩn - Không phải Nhất tình cờ bắt gặp tôi? Sau đó tiện tay cứu?


- Làm gì có chuyện tình cờ với tiện tay. - Lão tiều phu chỉ về hướng sông, thẳng lên trên - Nghe cậu Nhất nói phía trên Thượng lưu sông có chiến sự. Cậu ta còn bảo cái gì mà thời điểm này người đó một thân một mình, chắc chắn sẽ bị hãm hại… mà nơi trọng yếu chính là con sông này. Đến mùa nước lũ, chỉ cần đâm người bị thương rồi đẩy xuống sông… người kia có chết mất xác chẳng ai hay.


Nói đến đây, lão tiều phu lại tấm tắc:


- Dù lão chẳng hiểu mấy, nhưng cậu Nhất đúng là liệu sự như thần. Tính ngày lũ đến thì y như rằng mưa xối xả. Suốt cả tuần lũ cậu Nhất đóng cọc ở bờ sông, không chợp mắt một khắc nào. Sau nữa thì quả nhiên là tìm được cậu bị đẩy trôi xuống Hạ nguồn. Tính ra tướng tá cậu cũng ưa nhìn nên lão mới nhớ. Lúc đó cậu Nhất còn liều lao xuống sông, suýt chút nữa đã bị cuốn trôi cùng cậu rồi.


Lão tiều phu còn kể thêm rằng Nhất vác người lên bờ thế nào, gần như xuống tận Âm phủ đòi hồn chàng về. Phần sau Linh Vương không nghe rõ, tâm trí chàng xoay mòng trong rối ren.


Sự thật như vậy, thế mà bị Thế Nhất thản nhiên che lấp bằng hai tiếng "tiện tay” hời hợt và đơn điệu. Bản thân chàng cũng nghiễm nhiên bị thái độ của y qua mặt.


Tại sao y không nói ra?


Nếu không gặp lão tiều phu, phải chăng chàng sẽ vĩnh viễn không biết…?


Linh Vương bỗng hồ nghi. Có phải từ đầu y đã không định để chàng biết?


Y không muốn chàng nhận ra chẳng phải chàng may mắn qua cơn hoạn nạn, mà là y đã âm thầm tính toán, chờ đợi, thậm chí còn liều mình cứu chàng?


Tại sao phải làm đến mức đó? Liệu có nguyên nhân sâu xa gì chăng?


Linh Vương nhíu mày nhớ lại. Khiết Thế Nhất, Khiết Thế Nhất… trong quá khứ người này chẳng mấy khi xuất hiện trong tầm mắt chàng, nếu không chàng đã chẳng mất một thoáng mới nhận ra y.


Đến cùng thì, tại sao…


“Ngài là một Đại vương thất thế, tôi là phận kẻ sĩ đã chán ngán quan trường, cứu ngài cũng chẳng được lợi lộc gì. Thực sự chỉ là trùng hợp.”


“Triều đại này đã mạt vận.”


“Đã là tình cờ thì mong ngài cũng đừng để trong lòng. Chúng ta vốn dĩ không nên can hệ gì mới phải.”


“Thần sẽ suy nghĩ.”


“Đại vương, ngài phải bảo trọng.”


Không đúng, thật ra mỗi lời y nói đều là một phần sự thật. Cắt ra, ghép lại, chàng sẽ tìm được chân tướng.


Trong hiên có con chim ban cưu, hót hoài nhớ kinh đô.


Lúc đó Linh Vương tưởng những lời kia đang ám chỉ mình, nhưng nếu thực ra, Thế Nhất đang ám chỉ chính bản thân y thì sao? Phàm là người đã bước vào quan trường, có ai không từng muốn vì muôn dân trăm họ. Thời thế đẩy họ đi xa khỏi kinh đô, lên núi sống lánh đời, mà tâm trí vẫn canh cánh một nỗi nhớ mong.


Phải chăng Khiết Thế Nhất mới là người chẳng thể nào khuây lòng?


- Người đã nhớ kinh đô đến thế, vì sao lại từ chối ta?


Linh Vương ngoảnh nhìn lên núi, trông nắng phủ lên những tán cây tươi xanh mơn mởn. Từ nơi này, chàng khó thấy căn nhà tranh khuất lấp bên trong rừng bạch đàn, càng chẳng thể gặp lại người mặc áo lĩnh xanh thưởng trà nhàn nhã. Thời khắc họ gần nhau nhất, vỏn vẹn là động tác cụng chén gọn ghẽ.


Đôi mắt nhuộm sắc bìm bịp thoáng qua tâm trí, Linh Vương bỗng cảm thấy chàng vừa bừng tỉnh khỏi giấc Hoàng Lương. Dường như chàng đã hiểu được tâm ý ai kia, nhưng nhìn ra chân tướng chỉ khiến lòng vương sầu tư man mác.


Chàng gật đầu với lão tiều phu, rảo bước đến nơi đã hẹn với tôi tớ. Xe ngựa đã ở sẵn đó đón chàng về kinh. Những ngày sau, chàng tiếp tục ngập ngụa trong vòng xoáy với bậc quân vương, với lũ nịnh thần, với nhiễu nhương biên ải, với trăm họ lầm than. Mà người trong rừng bạch đàn hôm nay, họa chăng sẽ chỉ còn tồn tại trong sắc xanh bìm bịp, trong một thoáng hoang hoải chiêm bao.


Thế Nhất à, ta đã chẳng thấu tỏ lòng huynh.


Nên ta đành buông lơi câu tạ từ, buông lơi chén rượu ngỏ, buông lơi một ánh mắt đau đáu và tịch mịch như loài hoa sớm nở tối tàn.


Nếu mai này ta qua cơn khổ ải, nếu mai này huynh trở lại đô thành…


Biển rộng, sông dài, tuế nguyệt lặng lẽ chảy trôi. Người có tình, đời có duyên, nếu còn mong nhớ, ắt có dịp tương phùng.


Cho khuây lòng đôi ta.


Hết.


“Ngoài đồng nội có con chim bình thường,

Hót tràn cho đến già.

Trong hiên có con chim ban cưu

Hót hoài nhớ kinh đô.

Hỏi người nhớ kinh đô, hay nhớ cảnh giàu sang?

Đói hay no là do người ta, có gì mà đắc ý.

Muốn như chim thường kia đến già vẫn ở nơi ruộng vườn,

Bay liệng tự nó, cứ bay lên bay xuống mãi.

Người ta sống ở đời ba vạn sáu ngàn ngày,

Ngày xuân quan như tên bắn, thấm thoắt đã bạc mái đầu xanh.”


Trích “Xuân Ngâm” (Khúc ngâm ngày xuân) - Ngô Thì Nhậm.


Recent Posts

See All

Comments


Mỗi lượt tym, bình luận và theo dõi của bồ sẽ làm mình vui cả ngày ó! Cảm ơn bồ đã ghé chơi!
Theo dõi mình để cập nhật fic sớm nhất nha!
Cảm ơn bồ đã theo dõi ;>
bottom of page